Home Phone

Free shipping on 1.000.000 vnd

0912 345 678

0912 345 678

RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý

RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý

I. Tổng quan

1.1. Khái niệm

Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) là một rối loạn phát triển được biểu hiện bằng các triệu chứng dai dẳng của tình trạng mất chú ý và/hoặc tăng động và bốc đồng, ảnh hưởng đến chức năng hoặc sự phát triển.

1.2. Phân loại

Theo DSM-5 có các loại ADHD sau:

– Chủ yếu là tăng động

– Chủ yếu là giảm chú ý

– Kết hợp tăng động và giảm chú ý

+ Sự khởi phát thường là trước 12 tuổi

+ Các triệu chứng xuất hiện ở trường học, nơi làm việc hoặc ở nhà

+ Sự rối loạn này gây ra suy giảm đáng kể chức năng xã hội, nghề nghiệp và học tập.

+ Rối loạn này không liên quan đến bất kỳ rối loạn hành vi nào khác.

1.3. Dịch tễ

Các triệu chứng bắt đầu từ thời thơ ấu và có thể ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, bao gồm các mối quan hệ xã hội và hiệu suất học tập hoặc công việc. ADHD rất phổ biến ở trẻ em và thanh thiếu niên, nhưng nhiều người lớn cũng mắc chứng rối loạn này. ADHD xuất hiện ở khoảng 3% – 6% dân số là người lớn.

Người ta thấy rằng phân nhóm giảm chú ý chiếm khoảng 18,3% tổng số bệnh nhân, trong khi tăng động/bốc đồng và kết hợp lần lượt chiếm 8,3% và 70%. Người ta cũng thấy rằng phân nhóm giảm chú ý phổ biến hơn ở nhóm dân số nữ. Các rối loạn (tổng thể) được tìm thấy ở tỷ lệ nam/nữ là 2:1 theo các nghiên cứu khác nhau. 

II. Nguyên nhân và triệu chứng

Nguồn: Internet

2.1. Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ra ADHD liên quan đến nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố di truyền và yếu tố môi trường.

– Di truyền: Đây là một trong những tình trạng liên quan tới di truyền nhất về các rối loạn tâm thần. Có sự phù hợp lớn hơn nhiều ở cặp song sinh cùng trứng so với cặp song sinh khác trứng. Anh chị em ruột có nguy cơ mắc ADHD gấp đôi so với dân số nói chung.

– Môi trường: Nhiễm trùng do vi-rút, hút thuốc trong thời kỳ mang thai, thiếu hụt dinh dưỡng và tiếp xúc với rượu ở thai nhi cũng đã được khám phá là những nguyên nhân có thể gây ra rối loạn này.

Không có phát hiện nhất quán nào về hình ảnh não của những bệnh nhân mắc ADHD. Số lượng thụ thể dopaminergic cũng có liên quan đến sự phát triển của rối loạn này, qua đó nghiên cứu đã chỉ ra rằng các thụ thể giảm ở thùy trán ở những người mắc ADHD. Ngoài ra còn có bằng chứng về vai trò của sự tham gia của thụ thể noradrenergic trong ADHD. 

2.2. Triệu chứng

Ảnh: Triệu chứng ADHD (Nguồn: Psychologist Vietnam)

a) Sự mất tập trung: những người có triệu chứng mất tập trung thường có thể:

– Bỏ qua hoặc bỏ sót chi tiết và mắc phải những lỗi bất cẩn trong học tập, công việc hoặc các hoạt động khác.

– Gặp khó khăn trong việc duy trì sự chú ý trong khi chơi, làm việc hoặc thực hiện các nhiệm vụ như trò chuyện, bài giảng hoặc bài tập về nhà.

– Có vẻ như không lắng nghe khi được nói chuyện trực tiếp.

– Cảm thấy khó khăn khi thực hiện theo hướng dẫn hoặc hoàn thành công việc, việc nhà hoặc bài tập.

– Bắt đầu nhiệm vụ nhưng mất tập trung và dễ bị lạc hướng.

– Gặp khó khăn trong việc tổ chức các nhiệm vụ và hoạt động, thực hiện các nhiệm vụ theo thứ tự, theo dõi vật liệu và đồ đạc, quản lý thời gian và đáp ứng thời hạn.

– Tránh các nhiệm vụ đòi hỏi sự chú ý liên tục, chẳng hạn như làm bài tập về nhà, chuẩn bị báo cáo, hoàn thành biểu mẫu hoặc đọc các bài báo dài.

– Mất những thứ quan trọng như đồ dùng học tập, sách vở, ví, chìa khóa, giấy tờ, kính mắt và điện thoại di động.

– Dễ bị phân tâm bởi những suy nghĩ hoặc kích thích không liên quan.

– Hay quên trong các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như hoàn thành công việc nhà, chạy việc vặt, gọi lại và giữ đúng hẹn.

b) Tăng động/bốc đồng: những người có triệu chứng tăng động và bốc đồng thường có thể:

– Ngọ nguậy và vặn vẹo khi ngồi.

– Rời khỏi chỗ ngồi trong những tình huống mà người ta yêu cầu phải ngồi yên, chẳng hạn như trong lớp học hoặc tại văn phòng.

– Chạy, chạy xung quanh hoặc leo trèo vào những thời điểm không thích hợp hoặc ở thanh thiếu niên và người lớn, thường xuyên cảm thấy bồn chồn.

– Không thể chơi hoặc tham gia vào các sở thích một cách lặng lẽ.

– Luôn luôn chuyển động hoặc hành động như thể được điều khiển bởi một động cơ.

– Nói quá nhiều hoặc ngắt lời người khác.

– Trả lời câu hỏi trước khi được hỏi đầy đủ, kết thúc câu của người khác hoặc nói khi không đến lượt mình trong cuộc trò chuyện.

– Gặp khó khăn khi phải chờ đợi, ví dụ như trong các cuộc trò chuyện, trò chơi hoặc hoạt động.

Mọi người  có thể thường gặp phải tình trạng mất tập trung, hoạt động quá mức và đôi khi là bốc đồng. Nhưng đối với những người mắc ADHD, những hành vi này: nghiêm trọng hơn, xảy ra thường xuyên hơn và gây trở ngại hoặc làm suy yếu chức năng trong các tình huống xã hội, ở trường học hoặc tại nơi làm việc.

 III. Điều trị

3.1. Liệu pháp dược lý

Là phương pháp điều trị chính cho bệnh nhân mắc ADHD. Liệu pháp này được chia thành hai loại chính, bao gồm thuốc kích thích và thuốc không kích thích:

– Thuốc kích thích được chia thành amphetamine và methylphenidate.

– Trong số các lựa chọn không kích thích, cũng có hai loại: thuốc chống trầm cảm và thuốc chủ vận alpha.

3.2. Điều trị tâm lý xã hội

Hình thức điều trị này bao gồm giáo dục tâm lý cho gia đình và bệnh nhân và các chương trình đào tạo nhận thức – hành vi được thiết kế riêng cho bệnh nhân để đạt được các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các chương trình đào tạo này tỏ ra rất hiệu quả khi được sử dụng cùng với liệu pháp dược lý.

– Liệu pháp hành vi  nhằm mục đích giúp mọi người thay đổi hành vi của họ. Liệu pháp này có thể bao gồm việc nhà trị liệu cung cấp hỗ trợ thực tế, chẳng hạn như giúp sắp xếp các nhiệm vụ hoặc hoàn thành bài tập ở trường, hoặc hướng dẫn cách giải quyết các sự kiện khó khăn. Liệu pháp hành vi cũng dạy mọi người cách theo dõi hành vi của mình và tự khen ngợi mình vì đã hành động theo cách mong muốn, chẳng hạn như kiểm soát cơn giận hoặc suy nghĩ trước khi hành động.

– Liệu pháp hành vi nhận thức  giúp mọi người học cách nhận thức và chấp nhận suy nghĩ và cảm xúc của mình để cải thiện sự tập trung. Nhà trị liệu có thể giúp những người mắc ADHD thích nghi với những thay đổi trong cuộc sống đi kèm với quá trình điều trị, chẳng hạn như dành thời gian để suy nghĩ trước khi hành động hoặc chống lại sự thôi thúc chấp nhận rủi ro không cần thiết.

– Đào tạo kỹ năng xã hội dạy mọi người các kỹ năng giao tiếp và xã hội. Nó có thể bao gồm một nhà trị liệu dạy trẻ em cách chờ đến lượt mình, chia sẻ đồ chơi, yêu cầu giúp đỡ hoặc phản ứng với sự trêu chọc. Người lớn có thể học các kỹ năng giao tiếp như lắng nghe tích cực và cách kiểm soát bản thân và giải quyết vấn đề xã hội tốt hơn. Học cách đọc biểu cảm khuôn mặt và giọng điệu của người khác và cách phản ứng phù hợp cũng có thể là một phần của quá trình đào tạo.

Ba mẹ cũng nên học các lớp đào tạo sâu hơn về cách cư xử, hỗ trợ con trẻ bị ADHD để năng cao hiệu quả điều trị.

Ngoài ra, FDA vừa phê duyệt hệ thống kích thích dây thần kinh sinh ba cho trẻ em không dùng thuốc. Thiết bị này tạo ra xung điện mức thấp, giúp ức chế chứng tăng động. Chưa có chế độ ăn uống nào được chứng minh có thể cải thiện được chứng ADHD. Bệnh nhân mắc ADHD phải được theo dõi thường xuyên để kiểm tra các triệu chứng và bệnh đi kèm. Để đạt được mục tiêu điều trị, vai trò của giáo dục bệnh nhân không thể được nhấn mạnh đủ. Đối với trẻ em mắc ADHD, cha mẹ nên được giáo dục chính thức về rối loạn này để họ hiểu được khái niệm đằng sau chẩn đoán. Điều trị bằng thuốc chỉ có thể được tối ưu hóa nếu có sự tương tác liên tục giữa người chăm sóc chính và gia đình. 

Tài liệu tham khảo:

(1). Attention-Deficit/Hyperactivity Disorder, National institute of Mental Health – September 2024, https://www.nimh.nih.gov/health/topics/attention-deficit-hyperactivity-disorder-adhd

(2). Magnus W, Nazir S, Anilkumar AC, et al. Attention Deficit Hyperactivity Disorder. [Updated 2023 Aug 8]. In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2024 Jan-. Available from:

Share post

Related News